Đồng chí Nguyễn Phú Trọng với quá trình bổ sung, phát triển mô hình chủ nghĩa xã hội

Người Quan Sát

Người nghèo trong vũ trụ !
Tham gia
4/5/24
Bài viết
161,458
Sự định hình ngày càng rõ mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là kết quả của sự thấm nhuần một quan điểm rất quan trọng của V.I. Lênin về lý luận mà Bác Hồ đã trích làm đề từ trên trang đầu sách Đường kách mệnh: “Không có lý luận kách mệnh thì không có kách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận kách mệnh tiền phong, đảng kách mệnh mới làm nổi trách nhiệm kách mệnh tiền phong”. Cần phải nói rằng, mô hình CNXH Việt Nam chính là những nhận thức lý luận mới của Đảng ta được hình thành và rút ra từ quá trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, cũng như quá trình thảo luận dân chủ trong Đảng, trong đó có vai trò rất to lớn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng.
Xét theo logic lịch sử, lý luận về mô hình CNXH Việt Nam xác định trong Cương lĩnh 2011 được đúc kết trên cơ sở toàn bộ quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đổi mới từ năm 1986 đến trước Đại hội Đảng lần thứ XI, năm 2011. Tuy nhiên, trong toàn bộ quá trình ấy, hai cuộc tổng kết: “Tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006)”, và “Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991-2011)”, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Bởi vì, kết quả của hai cuộc tổng kết này đã cung cấp những cơ sở khoa học, thực tiễn, trực tiếp phục vụ cho việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh 2011.
Với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ thứ hai từ 2001 đến 2006, người thay mặt Bộ Chính trị phụ trách công tác lý luận của Đảng trong giai đoạn đến năm 2011, đồng chí Nguyễn Phú Trọng có vai trò to lớn trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, cũng như đóng góp trực tiếp vào quá trình bổ sung, phát triển Cương lĩnh 2011 nói chung và mô hình CNXH Việt Nam nói riêng.
Trong cuộc “Tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006)”, đồng chí Nguyễn Phú Trọng là Phó Trưởng ban chỉ đạo duy nhất, giúp Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trực tiếp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo. Ở cuộc “Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991-2011)”, đồng chí được phân công là Phó Trưởng tiểu ban thường trực của Tiểu ban Tổng kết bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991 và chuẩn bị Báo cáo Chính trị trình Đại hội XI của Đảng. Dưới sự chỉ đạo chung của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, đồng chí Nguyễn Phú Trọng là người trực tiếp tổ chức nghiên cứu, khảo sát thực tế, chịu trách nhiệm tổ chức việc tập hợp, chọn lọc các ý kiến, đề xuất các nội dung, biên tập bản thảo của báo cáo của hai cuộc tổng kết. Nhiều nội dung mới bổ sung, phát triển Cương lĩnh 2011 nói chung và mô hình CNXH Việt Nam nói riêng được rút ra từ kết quả của hai cuộc tổng kết nói trên.
Với những trách nhiệm ấy, vai trò và đóng góp của đồng chí vào quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là rất to lớn. Vai trò đó, đóng góp đó không chỉ ở công tác chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên, mà còn chính là sự định hướng, gợi mở các vấn đề, tổng kết để đưa ra kết luận trong các cuộc thảo luận. Đặc biệt là vai trò, đóng góp của đồng chí trong xây dựng, hoàn thiện các bản báo cáo tổng hợp, nguồn tài liệu trực tiếp phục vụ cho việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh 2011.
Từ Đại hội lần thứ XI của Đảng đến nay, đồng chí Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư của Đảng, người chủ trì trong việc phát triển, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới của Đảng, trong đó có việc phát triển, hoàn thiện và khẳng định mô hình CNXH Việt Nam.
Trước hết, cùng với việc khẳng định “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”, đồng chí Nguyễn Phú Trọng tiếp tục làm sâu sắc hơn nhận thức của Đảng ta về CNXH và thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong bài nói tại Trường đảng cao cấp Nicô Lôpết Cu Ba ngày 9/4/2012, đồng chí nhấn mạnh: “quá độ lên CNXH là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”. Và quá độ lên CNXH đối với Việt Nam càng khó khăn, phức tạp hơn, bởi vì nước ta đi lên CNXH “từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề…”[3]
Từ nhận thức chung về thời kỳ quá độ lên CNXH của Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh và làm rõ thêm bản chất và cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của một số vấn đề mới được xác định trong các đặc trưng của chế độ xã hội XHCN và phương hướng xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN.
Vấn đề đầu tiên được đồng chí nhắc đến, nhấn mạnh nhiều nhất, sâu sắc nhất, chính là Nhân dân. Nội dung về Nhân dân được đặt ra và lý giải trên tất cả các chiều cạnh, từ vai trò và vị trí Nhân dân đối với chế độ, Đảng, Nhà nước và xã hội; từ sức mạnh của Nhân dân với vai trò là động lực, nguồn lực quan trọng nhất của phát triển; đến hạnh phúc của Nhân dân với ý nghĩa là mục đích tối thượng của phát triển; các chủ trương, giải pháp để tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết, phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân.
Không chỉ khẳng định vai trò, vị trí của Nhân dân như những nguyên tắc được xác định trong các đặc trưng, phương hướng phát triển của chế độ, của đất nước, đồng chí còn phân tích cụ thể, lý giải sinh động những yêu cầu về mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân; về trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đối với Nhân dân; về tác phong công tác, về thái độ ứng xử của cán bộ đảng viên đối với Nhân dân. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, đồng chí nói: “Cần khẳng định, ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.
Đây không chỉ là cách biểu đạt một vấn đề có tính quy luật của lịch sử, không chỉ là khẳng định quyết liệt, sâu sắc một quan điểm, chủ trương đặc biệt quan trọng của Đảng, Nhà nước và chế độ, đây còn là thể hiện một sự nhận thức sâu sắc về Nhân dân, một tấm lòng thương yêu hết mực vì Nhân dân, một tinh thần “luôn lấy việc phục vụ Nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu”.
Trong câu nói của đồng chí Tổng Bí thư, ta gặp câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại” [4]. Phải chăng đó chính là một biểu hiện sinh động về sự trung thành, kế tục và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhân dân nói riêng. Những ý kiến của Tổng Bí thư về vấn đề nhân dân càng cho thấy ý nghĩa sâu sắc và quan trọng của những thành tố “Nhân dân” với ý nghĩa khẳng định tính chất nền tảng quyết định trong các đặc trưng của chế độ xã hội XHCN mà Nhân dân ta xây dựng.
Gắn liền với vấn đề Nhân dân là vấn đề văn hóa. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.
Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”[5]. Nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò to lớn của văn hóa, ngay trong mở đầu bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, đồng chí Nguyễn Phú Trọng thêm một lần nữa khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn…”.
Luận giải về nền văn hóa mà nhân dân ta xây dựng là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng chí Tổng Bí thư xác định rõ nội dung của nền văn hóa đó là, thứ nhất, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; thứ ba, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước; thứ tư, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại; và thứ năm, mục tiêu là, xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao[6].
Bàn về các đặc trưng của CNXH, trong các tác phẩm của mình, tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập, phân tích và làm rõ từng đặc trưng từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn. Tuy nhiên, đồng chí dành sự quan tâm phân tích, lý giải làm rõ hơn đối với những vấn đề mới, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, của con người, những vấn đề còn có những ý kiến khác nhau, nhất là còn có những ý kiến chống đối từ các thế lực ngoài nước, trong đó có vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam. Đồng chí đã phân tích, chứng minh, chỉ rõ bản chất và cơ sở khoa học, cơ sở thực tế để khẳng định về sự tồn tại không thể bác bỏ của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam.
Nói đến nền kinh tế thị trường riêng có của Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn chỉ rõ và nhấn mạnh một thuộc tính quan trọng của nền kinh tế đó là định hướng xã hội chủ nghĩa:
  • Đó là “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”.
  • Đó là “mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn"[8].
Theo đồng chí, đây chính là một nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước, là nội dung của định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường đặc thù của Việt Nam. Bảo đảm nguyên tắc đó cũng chính là bảo đảm cho tính ưu việt của chế độ xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng. Trên cơ sở phân tích, làm rõ tính chất, nội dung, đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam, đồng chí khẳng định đây là “một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta”, là thành quả phát triển lý luận từ thực tiễn công cuộc đổi mới, “xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”[9].
Cùng với việc làm rõ nội dung, tính chất, cơ sở khoa học và thực tiễn của các đặc trưng, phương hướng và cách thức cơ bản để phát triển của mô hình CNXH Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, khái quát và khẳng định giá trị cốt lõi của mô hình CNXH Việt Nam. Những giá trị cốt lõi này được tổng kết và nêu lên từ bài nói tại Trường đảng Nicô Lôpết Cu Ba năm 2012 và tiếp tục được nhấn mạnh, làm rõ hơn trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” công bố năm 2021.
5 giá trị đó là: Thứ nhất, mục đích tối thượng của phát triển trong xã hội XHCN Việt Nam là vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân; thứ hai, trong xã hội XHCN Việt Nam, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; thứ ba, xã hội XHCN Việt Nam là xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; thứ tư, xã hội XHCN Việt Nam là xã hội phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai; và thứ năm, toàn bộ quyền lực chính trị trong xã hội XHCN Việt Nam thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân[10].
5 giá trị cốt lõi trên chính là sự biểu hiện tập trung nhất của tính ưu việt, của mục đích nhân văn cao cả của xã hội XHCN mà Nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, đó cũng chính là những khát vọng ngàn đời của con người nói chung, cũng như của Nhân dân ta, dân tộc ta nói riêng.
Một vấn đề có tính nguyên tắc được đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn luôn quan tâm đặc biệt, quán triệt sâu sắc trong các bài viết, bài phát biểu quan trọng của mình, đó là vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng.Theo đồng chí: “Chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa” bởi vì “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”[11].
Nói về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đồng chí luôn nhấn mạnh mục đích phấn đấu của Đảng là vì lợi ích dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Để đạt được mục đích ấy, Đảng kiên trì lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, trong đó cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Nhấn mạnh quan điểm nhất quán, coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đồng chí Nguyễn Phú Trọng coi đó như là một logic tất yếu, một vấn đề do các yếu tố khách quan xã hội quy định, bởi vì Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thành công của cách mạng. Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác tổ chức, cán bộ được đồng chí xác định “là “then chốtcủa nhiệm vụ “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước[12].
Công tác tổ chức, cán bộ là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, với chế độ, song lại là một công việc xây dựng con người, là công tác con người, vô cùng phức tạp, tinh tế. Vì thế, đồng chí yêu cầu không thể nóng vội, làm một lần là xong, mà ngược lại, phải làm rất kiên trì, bền bỉ, làm thường xuyên, liên tục, làm đi làm lại nhiều lần như đánh răng, rửa mặt, quét nhà, rửa bát hằng ngày như Bác Hồ đã dạy.
Để làm tốt công tác tổ chức, cán bộ phải làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện thử thách, kiểm tra thường xuyên, đánh giá lựa chọn chặt chẽ để bố trí, sắp xếp cán bộ đúng người, đúng việc; đồng thời phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn đẩy lùi những hạn chế, yếu kém, kiên quyết đưa ra khỏi tổ chức đảng nhất là ra khỏi những vị trí lãnh đạo, quản lý, những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, để làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Nhưng để giải quyết tận gốc rễ những hạn chế, yếu kém trong Đảng, thì phải tìm ra được nguyên nhân của nó, mà theo đồng chí: “Đó chính là do nguyên nhân chủ quan, do lỗi của chúng ta; do sự yếu kém, thiếu kiên quyết trong công tác giáo dục, lãnh đạo, quản lý; do sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính của một số cán bộ, đảng viên; sự thiếu gương mẫu của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân”[13]. Cũng như muốn trị bệnh cứu người thì phải tìm ra được bệnh là gì, trong công tác tổ chức, cán bộ, chỉ có tìm được nguyên nhân của hạn chế, yếu kém mới đưa ra được những nội dung giải pháp để sửa chữa, khắc phục.
Nhìn lại quãng thời gian từ sau Đại hội lần thứ XI của Đảng đến nay, với trách nhiệm là Tổng Bí thư, với tư cách là một nhà lý luận, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã lãnh đạo, chỉ đạo công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của Đảng và trực tiếp thể hiện quan điểm của mình trong nhiều tác phẩm quan trọng, nhằm bổ sung, hoàn thiện và định hình ngày càng rõ hơn mô hình CNXH Việt Nam. Đó là quá trình khẳng định, làm rõ hơn mục tiêu, các đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng, cùng các phương hướng chủ yếu nhằm hiện thực hóa mục tiêu và những đặc trưng đó.

 

Chủ đề tương tự

Back
Top